Người ta có thể xem xét những cuốn sách khác nhau về cùng một lĩnh vực để so sánh và đưa ra nhận xét thứ tự. Quy tắc 8 được phát biểu như sau: TÌM RA HƯỚNG GIẢI QUYẾT CỦA TÁC GIẢ. TỪ MANG TÍNH THÔNG LỆ - từ là các ký hiệu do con người đặt ra.
Tác giả cần phải có kiến thức đầy đủ hơn, đưa ra những bằng chứng và lập luận thuyết phục hơn. Phủ nhận việc trình bày một ý tưởng theo nhiều cách cũng giống như nói rằng không thể dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia. Hoặc nó bắt đầu bằng các dẫn chứng và lý lẽ để từ đó suy ra kết luận.
Một độc giả nếu chỉ đồng ý với một phần của cuốn sách có thể do dự khi phải nhận xét về tính hoàn chỉnh của tác phẩm. Ví dụ, bạn đọc một bài báo dạy cách làm bánh sôcôla. Đôi lúc các bước này có thể được bỏ qua mà không gây ra điều gì bất tiện vì từ kiến thức chung của bản thân độc giả vẫn khôi phục được những nhận định không được nhắc tới.
Điều này có nghĩa là bạn cần có kiến thức tương đối toàn diện về một loại sách tham khảo cơ bản trước khi sử dụng hữu hiệu một loại nào đó. Hoặc nếu tên tác phẩm đề cập đến những lĩnh vực mang tính thực hành mà bạn biết như đạo đức, chính trị, kinh doanh, thậm chí có thể là kinh tế học, luật pháp hay y khoa, thì bạn có thể phân loại cuốn sách đó khá dễ dàng. Bạn không nhận được phần thưởng nào cho sự chiến đấu của mình.
Cách đọc như thế được những người Do Thái chính thống áp dụng khi đọc Kinh Cựu Ước; người Cơ đốc giáo áp dụng đọc Tân Cựu Ước; người Hồi giáo đọc Kinh Koran; người theo chủ nghĩa Marxists đọc các tác phẩm của Marx, Lenin và tuỳ thuộc vào tình hình chính trị họ đọc các tác phẩm của Stalin; các nhà tâm lý học theo trường phái Freud đọc các tác phẩm của Freud; các sĩ quan quân đội Hoa Kỳ đọc sách huấn luyện bộ binh… Không khó để phác hoạ lại cấu trúc một tác phẩm khoa học xã hội nhưng để đồng tình với những gì tác giả đưa ra thì không hề dễ vì hầu như mọi tác giả đều không thể quy định việc sử dụng từ ngữ của họ. Điều này không đúng.
Họ có thể dùng phép ẩn dụ như là một chất liệu sáng tác. Đây chính là lúc cần chú ý tới biện pháp tu từ. Thứ hai, việc mọi người bất đồng quan điểm không có gì quan trọng.
Nhưng bản thân cụm từ Tôi không hiểu cũng có thể coi là một lời đánh giá phê bình. Các mệnh đề trong lập luận thường được liên kết với nhau bằng các từ như: nếu (cái gì xảy ra), thì (kết quả sẽ); hoặc vì (điều này), nên (có điều kia); hoặc, từ đó suy ra, chúng ta có thể thấy… Bạn không nên đọc phân tích bất cứ cuốn nào trước khi bạn xem qua chúng.
Tất nhiên, cuốn Symtopicon cũng có hạn chế. Cuốn sách này bao gồm rất nhiều định lý, phần dựng hình và các định đề. Trong quá trình cập nhật, viết lại, và chỉnh sửa cuốn sách này, tôi đã nhận được sự cộng tác của Charles Van Doren - đồng nghiệp của tôi tại Viện Nghiên cứu Triết học.
Do đó, quy tắc 3 không chỉ liên quan đến việc liệt kê các phần trong sách, mà còn bao hàm việc lập dàn ý từng phần, coi đó là những tập hợp con mà mỗi phần lại có tính chỉnh thể và phức tạp riêng. Tác phẩm Dẫn luận toán học của Whitehead lại mang tính cấp thiết hơi khác. Một độc giả quan tâm đến chủ đề này và muốn nắm bắt thông tin cần biết mọi khía cạnh của nó.
Điều này cũng có nghĩa là mọi thứ đều có tầm quan trọng như nhau. Có và không có giáo viên. Khi đọc một cuốn sách lịch sử, ta muốn biết tính chân thật về một nội dung nào đó và có quyền phàn nàn nếu không được thỏa mãn ước muốn trên.