Còn trong chương kết của cuốn sách On the Motion of the Heart (Vận động của trái tim), nhà sinh lý học William Harvey đã viết: Từ lý luận và thực nghiệm, có thể rút ra kết luận tâm thất co bóp đẩy máu qua phổi và tim rồi truyền đi khắp cơ thể. Ở đây, chúng ta đang giả thiết về những vấn đề có thật, tức là động vật và con người là có thật. Immanuel Kant đã viết hai tác phẩm triết học nổi tiếng là The Critique of Pure Reason (Bàn về suy luận thuần tuý) và The Critique of Practical Reason (Bàn về suy luận mang tính thực hành).
Nhưng lời của tác giả - được trích dẫn một cách cẩn thận để không bị sai lệch ý - phải được kèm vào phần tóm tắt giúp người viết, cũng là để người đọc theo phương pháp này tự đánh giá được liệu mình đã hiểu đúng ý tác giả chưa. Cuối cùng là những bài luận chính, hoàn toàn mang tính triết học lý thuyết hay quy phạm về vật lý, siêu vật lý, đạo đức, chính trị và thi ca. Nếu bạn đọc lời bình ngay từ đầu, chúng có thể sẽ làm lệch lạc quá trình đọc của bạn.
Ví dụ, bạn không thể tìm thấy những câu hỏi về đạo đức hoặc về tương lai trong sách tham khảo. Cuộc tranh luận này có thể rất phức tạp và người đọc có nhiệm vụ phải tìm hiểu và sắp xếp nó có trật tự và rõ ràng ngay cả khi không tác giả nào làm việc đó. Chúng ta cũng sẽ nhanh chóng nhận ra điều gì là quan trọng trong một loạt các sự kiện.
Ngay cả anh hùng cũng có thể sai lầm nên các quyết định đưa ra đương nhiên sẽ không đúng đắn. Bạn phải nói lần lượt từng vấn đề một. Một nguyên nhân khác là họ đã không đọc những cuốn sách khác có liên quan chặt chẽ tới cuốn sách trước khi bắt đầu đọc nó.
Một bài thơ hay không chỉ đúng trong thời đại và không gian của nó, mà trong mọi thời đại và ở mọi nơi. Anh ta cần chú ý đến sự khác biệt giữa kiến thức thực tế và quan điểm cá nhân cũng như chú ý đến tác giả. Mười sửa đổi đầu tiên tạo nên Dự thảo Luật về Quyền con người.
Ở đó, những điều khủng khiếp xảy ra với người tốt. Tốt là một thuật ngữ triết học quan trọng và cũng là một từ quan trọng trong ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta. Đa số các sách vở truyền đạt tri thức và hướng dẫn chúng ta đều có chứa lập luận.
Trong cả hai trường hợp, hoạt động học diễn ra trong bản thân người học. Chúng tôi chọn chủ đề là ý tưởng về sự tiến bộ. Quy tắc 2 và 3 nêu trên không chỉ áp dụng riêng cho việc đọc mà còn liên quan đến việc viết vì đọc và viết có mối quan hệ tương hỗ với nhau, cũng như quan hệ giữa dạy và học.
Điều này liên quan tới việc đọc đồng đề tài. Khoa học không chỉ đề cập tới một chủ đề. Độc giả phải hỏi cùng một loại câu hỏi: Mục đích của tác giả là gì? Những tiêu chuẩn đánh giá sự thật của tác giả là gì? Và tất nhiên, chúng ta cũng phải hỏi cả những câu mà chúng ta vẫn đặt ra với bất cứ cuốn sách nào.
Chúng ta đều biết rằng hành động thông minh phải bắt nguồn từ tri thức. Các từ còn lại cũng cần được đặt vào đúng chỗ. Nếu muốn trình bày ý tưởng một cách độc đáo, mới lạ, tác giả sẽ sử dụng một số từ trong hệ thống này theo cách đặc biệt, còn những từ khác vẫn được dùng theo cách thông thường.
Đọc thể loại này, chúng ta mong muốn tác giả viết chính xác và hiểu những sự thật mà anh ta đưa ra; muốn có cảm giác đang xem lại cuộc đời một con người thật trong một khoảng thời gian và không gian khác. Vì cụm từ là một tập hợp từ, trong đó mỗi từ lại tạo nên ngữ cảnh cho các từ khác nên các từ đơn lẻ có xu hướng bị giới hạn về nghĩa. Ngược lại, độc giả hay thính giả giống người bắt bóng trong môn bóng chày nhiều hơn.